ĐẢNG
CỘNG
SẢN
VIỆT
NAM
–
NGƯỜI
TỔ
CHỨC
VÀ
LÃNH
ĐẠO
MỌI
THẮNG
LỢI
CỦA
CÁCH
MẠNG
VIỆT
NAM
Trần
Việt
Nhân
Tổ
trưởng
Tổ
Sử
-
Địa
-
GDCD
Năm
1858,
thực
dân
Pháp
nổ
súng
đánh
chiếm
bán
đảo
Sơn
Trà
–
Đà
Nẵng,
chính
thức
mở
đầu
cuộc
xâm
lược
Việt
Nam
lần
thứ
nhất.
Kế
thừa
truyền
thống
đấu
tranh
chống
giặc
ngoại
xâm
bất
khuất
của
dân
tộc,
các
tầng
lớp
nhân
dân
Việt
Nam
đã
anh
dũng
đứng
lên
cầm
vũ
khí
chống
giặc
Pháp
xâm
lược
với
tinh
thần
bất
hủ
của
anh
hùng
Nguyễn
Trung
Trực:
“Bao
giờ
người
Tây
nhổ
hết
cỏ
nước
Nam
mới
hết
người
Nam
đánh
Tây”.
Các
cuộc
kháng
chiến
chống
Pháp
của
dân
tộc
Việt
Nam
diễn
ra
vô
cùng
mạnh
mẽ,
nối
tiếp
nhau,
lớp
này
ngả
xuống,
lớp
khác
đứng
lên,
cuồn
cuộn
như
những
con
sóng
không
ngừng
nghỉ.
Tuy
nhiên,
do
sự
chênh
lệnh
về
lực
lượng
và
đường
lối
kháng
chiến
sai
lầm
của
nhà
Nguyễn,
các
cuộc
đấu
tranh
của
nhân
dân
ta
đều
lần
lượt
bị
thất
bại
và
bị
thực
dân
Pháp
dìm
trong
biển
máu.
Năm
1884,
nhà
Nguyễn
đã
ký
Pháp
Hiệp
định
Patanốt,
chính
thức
thừa
nhận
sự
cai
trị
của
thực
dân
Pháp
trên
toàn
cõi
Việt
Nam,
biến
nước
ta
từ
một
quốc
gia
phong
kiến
độc
lập
thành
“một
xứ
thuộc
địa,
dân
ta
là
vòng
quốc
nô,
Tổ
quốc
ta
bị
giày
xéo
dưới
gót
sắt
của
kẻ
thù
hung
ác”.
Không
cam
chịu
thân
phận
nô
lệ,
các
tầng
lớp
nhân
dân
Việt
Nam
lại
đứng
lên
tiếp
tục
con
đường
tranh
đấu
cho
độc
lập,
tự
do.
Từ
ngọn
cờ
yêu
nước
theo
tiếng
gọi
“Cần
vương”
của
nhà
vua
trẻ
yêu
nước
Hàm
Nghi
hay
“hùm
xám
Yên
Thế”
của
Hoàng
Hoa
Thám
đến
ngọn
cờ
cứu
nước
theo
khuynh
hướng
dân
chủ
tư
sản
của
các
cụ
Phan
Bội
Châu,
Phan
Châu
Trinh…
diễn
ra
vô
vùng
mạnh
mẽ,
sôi
nổi,
quyết
liệt
nhưng
đều
bị
thất
bại
do
sự
khủng
hoảng
về
đường
lối
cứu
nước
và
giai
cấp
lãnh
đạo.
Sự
nghiệp
cứu
nước
của
dân
tộc
Việt
Nam
lâm
vào
cảnh
“dường
như
trong
đêm
tối
không
có
đường
ra”.
Yêu
cầu
tìm
ra
con
đường
cứu
nước
mới
đặt
ra
cấp
bách
hơn
bao
giờ
hết.
Đúng
lúc
ấy,
người
thanh
niên
yêu
nước
Nguyễn
Tất
Thành
đã
ra
đi
tìm
đường
cứu
nước
mới.
Ngày
5/6/1911
với
tên
gọi
Văn
Ba,
Người
làm
phụ
bếp
cho
chiếc
tàu
buôn
Latutsơtơrêvin
(Latouche
Tréville),
rời
bến
cảng
Nhà
Rồng,
vượt
đại
dương
sang
phương
Tây,
bắt
đầu
cuộc
hành
trình
vạn
dặm
đi
tìm
đường
cứu
nước,
cứu
dân
với
một
mong
muôn
duy
nhất
“độc
lập
cho
Tổ
quốc
tôi,
tự
do
cho
nhân
dân
tôi”.
Trong
bài
thơ
–
Người
đi
tìm
hình
của
nước,
nhà
thơ
Chế
Lan
Viên
đã
viết:
“Đất
nước
đẹp
vô
cùng.
Nhưng
Bác
phải
ra
đi
Cho
tôi
làm
sóng
dưới
con
tàu
đưa
tiễn
Bác
Khi
bờ
bãi
dần
lui
làng
xóm
khuất
Bốn
phía
nhìn
không
một
bóng
hàng
tre
Đêm
xa
nước
đầu
tiên,
ai
nỡ
ngủ
Sóng
vỗ
dưới
thân
tàu
đâu
phải
sóng
quê
hương
Trời
từ
đây
chẳng
xanh
màu
xứ
sở
Xa
nước
rồi,
càng
hiểu
nước
đau
thương”.
Tháng
7/1920,
sau
hơn
10
năm
buôn
ba
tìm
đường
cứu
nước,
đi
qua
nhiều
châu
lục,
làm
nhiều
nghề
để
sống
và
để
đi,
Người
đọc
được
Luận
cương
của
Lênin
về
vấn
đề
dân
tộc
và
thuộc
địa,
tìm
thấy
được
con
đường
cứu
nước
đúng
đắn
cho
dân
tộc
Việt
Nam
–
con
đường
cách
mạng
vô
sản,
con
đường
cách
mạng
tháng
Mười
Nga
của
Lênnin
đã
làm
và
thành
công.
Bắt
gặp
chân
lí
của
thời
đại,
Người
đã
tích
cực
truyền
bá
vào
Việt
Nam,
chuẩn
bị
những
điều
kiện
cho
sự
ra
đời
của
chính
đảng
vô
sản
ở
Việt
Nam.
Năm
1925,
Người
thành
lập
Hội
Việt
Nam
cách
mạng
thanh
niên
để
trực
tiếp
chuẩn
bị
những
điều
kiện
cho
sự
thành
lập
Đảng.
Năm
1929,
ở
Việt
Nam
ba
tổ
chức
cộng
sản
lần
lượt
ra
đời.
Từ
ngày
6/1
–
7/2/1930,
tại
Cửu
Long
–
Hương
Cảng
(Hồng
Công
–
Trung
Quốc),
Nguyễn
Ái
Quốc
đã
chủ
trị
hội
nghị
hợp
nhất
ba
tổ
chức
cộng
sản,
thành
lập
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam,
thông
qua
Cương
lĩnh
chính
trị
đầu
tiên
của
Đảng
do
Nguyễn
Ái
Quốc
soạn
thảo
(Tại
Đại
hội
đại
biểu
toàn
quốc
lần
thứ
III
–
9/1960,
đã
quyết
định
lấy
ngày
3/2
dương
lịch
hàng
năm
làm
ngày
kỷ
niệm
thành
lập
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam).
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam
ra
đời
là
bước
ngoặt
to
lớn
trong
lịch
sử
cách
mạng
Việt
Nam.
Từ
đây,
cách
mạng
Việt
Nam
đặt
dưới
sự
lãnh
đạo
duy
nhất
của
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam,
một
đảng
có
tổ
chức
chặt
chẽ,
đường
lối
đúng
đắn,
khoa
học,
có
đội
ngũ
cán
bộ
kiên
trung
sẵn
sàng
hy
sinh
vì
mục
tiêu
của
Đảng,
vì
độc
lập
tự
do
của
dân
tộc.
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam
ra
đời
là
sự
chuẩn
bị
tất
yếu
quyết
định
đầu
tiên
cho
mọi
thắng
lợi
về
sau
của
cách
mạng
Việt
Nam.
Sau
khi
ra
đời,
Đảng
lãnh
đạo
nhân
dân
Việt
Nam
đấu
tranh
giải
phóng,
giành
chính
quyền.
Trải
qua
ba
cao
trào
cách
mạng
1930
–
1931,
1936
–
1939
và
1939
–
1945,
Đảng
ta
đã
chuẩn
bị
đầy
đủ,
chu
đáo
cho
một
cuộc
vùng
dậy
của
toàn
dân
tộc.
Tháng
8/1945,
nhân
cơ
hội
Nhật
đầu
hàng
Đồng
minh,
thời
cơ
“ngàn
năm
có
một”
đã
đến,
Đảng
và
Chủ
tịch
Hồ
Chí
Minh
đã
lãnh
đạo
cuộc
Tổng
khởi
nghĩa
giành
chính
quyền
trong
cả
nước
và
giành
được
thắng
lợi
nhanh
chóng.
Ngày
2/9/1945,
tại
Quảng
trường
Ba
Đình
lịch
sử,
Chủ
tịch
Hồ
Chí
Minh
đọc
bản
Tuyên
ngôn
Độc
lập
khai
sinh
ra
nước
Việt
Nam
Dân
chủ
Cộng
hòa.
Với
thắng
lợi
của
cuộc
Cách
mạng
tháng
Tám
năm
1945,
nhân
dân
Việt
Nam
đã
bước
từ
địa
vị
nô
lệ
lên
địa
vị
làm
chủ
đất
nước,
có
quyền
quyết
định
vận
mệnh
của
mình;
Đảng
Cộng
sản
Đông
Dương
từ
chỗ
phải
hoạt
động
bí
mật,
bất
hợp
pháp
đã
trở
thành
đảng
cầm
quyền
và
ra
hoạt
động
công
khai.
Việt
Nam
từ
một
nước
thuộc
địa
mất
độc
lập
tự
do
đã
trở
thành
một
quốc
gia
độc
lập
có
chủ
quyền.
Cách
mạng
tháng
Tám
năm
1945
thành
công
đã
mở
ra
kỷ
nguyên
mới
trong
lịch
sử
dân
tộc
Việt
Nam
-
kỷ
nguyên
độc
lập,
tự
do
hướng
tới
chủ
nghĩa
xã
hội,
kỷ
nguyên
nhân
dân
nắm
chính
quyền,
làm
chủ
đất
nước.
Sau
khi
giành
được
độc
lập
dân
tộc,
Đảng
lại
tiếp
tục
đã
lãnh
đạo
nhân
dân
Việt
Nam
đương
đầu
với
cuộc
chiến
tranh
xâm
lược
trở
lại
của
thực
dân
Pháp.
Ngày
23/9/1945,
thực
dân
Pháp
với
sự
giúp
sức
của
quân
Anh
đã
nổ
súng
đánh
chiếm
trụ
sở
Ủy
ban
Nhân
dân
Nam
Bộ,
chính
thức
gây
ra
cuộc
chiến
tranh
xâm
lược
Việt
Nam
lần
thứ
hai.
Nhân
dân
Việt
Nam
lại
phải
bước
vào
cuộc
trường
kỳ
kháng
chiến
9
năm
(1945
–
1954).
Thực
hiện
đồng
thời
hai
nhiệm
vụ
kháng
chiến
và
kiến
quốc,
với
tinh
thần
“Chúng
ta
thà
hy
sinh
tất
cả
chứ
nhất
định
không
chịu
mất
nước,
không
chịu
làm
nô
lệ”,
bằng
đường
lối
kháng
chiến
toàn
dân,
toàn
diện,
trường
kỳ,
tự
lực
cánh
sinh
và
tranh
thủ
sự
ủng
hộ
của
quốc
tế,
Đảng
đã
lãnh
đạo
nhân
dân
ta
lần
lượt
đánh
bại
các
kế
hoạch
chiến
tranh
của
thực
dân
Pháp
với
những
chiến
thắng
vang
dội
ở
Việt
Bắc
(1947),
Biên
giới
(1950)
mà
nhất
là
chiến
thắng
lịch
sử
Điện
Biện
Phủ
(1954)
“lừng
lẫy
năm
châu,
chấn
động
địa
cầu”
đã
đập
tan
hoàn
toàn
ý
chí
xâm
lược
của
thực
dân
Pháp,
buộc
thực
dân
Pháp
phải
ký
Hiệp
định
Giơnevơ
(21/7/1954)
về
Đông
Dương,
công
nhận
độc
lập,
chủ
quyền,
thống
nhất
và
toàn
vẹn
lãnh
thổ
của
ba
nước
Đông
Dương.
Chiến
thắng
Điện
Biên
Phủ
và
Hiệp
định
Giơnevơ
đã
chấm
dứt
vĩnh
viễn
sự
thống
trị
của
thực
dân
Pháp
ở
nước
ta,
mở
ra
một
kỷ
nguyên
mới
trong
lịch
sử
dân
tộc.
Sau
1954,
miền
Bắc
được
hoàn
toàn
giải
phóng,
tiến
lên
chủ
nghĩa
xã
hội.
Ở
miền
Nam,
Pháp
rút
đi,
đế
quốc
Mĩ
đã
nhảy
vào,
dựng
lên
chính
quyền
tay
sai
Ngô
Đình
Diệm,
âm
mưu
chia
cắt
lâu
dài
Việt
Nam,
biến
miền
Nam
Việt
Nam
thành
thuộc
địa
kiểu
mới
của
Mĩ.
Thời
kì
1954
-
1975,
với
quyết
tâm
xâm
lược
bằng
được
Việt
Nam, đế
quốc
Mĩ
đã
đưa
vào
Việt
Nam
một
đội
quân
viễn
chinh
hơn
60
vạn
tên
gồm
quân
Mĩ
và
5
nước
đồng
minh
của
Mĩ
làm
nòng
cốt
cho
hơn
1
triệu
quân
đội
Sài
Gòn.
Riêng
về
quân
Mĩ,
chúng
đã
huy
động
lúc
cao
nhất
gần
70%
lực
lượng
bộ
binh,
60%
thủy
quân
đánh
bộ,
hơn
30%
lực
lượng
không
quân
chiến
thuật,
50%
lực
lượng
không
quân
chiến
lược
và
chúng
đã
tiêu
tốn
hơn
900
tỉ
USD.
Có
thể
nói
đây
là
một
cuộc
chiến
tranh
xâm
lược
thực
dân
mới
với
quy
mô
lớn
nhất
nhất,
dài
ngày
nhất,
ác
liệt
nhất
và
dã
man
nhất
từ
sau
Chiến
tranh
thế
giới
thứ
hai.
Mĩ
đã
ngoan
cố
theo
đổi
cuộc
chiến
tranh
Việt
Nam
suốt
hai
thập
kỷ,
qua
5
đời
tổng
thống,
sử
dụng
hầu
hết
các
chiến
lược
chiến
tranh
(trừ
chiến
tranh
tổng
lực),
sử
dụng
hầu
hết
vũ
khí
hiện
đại
(trừ
vũ
khí
hạt
nhân)
với
những
khoản
chi
phí
chiến
tranh
khổng
lồ.
Trong
bối
cảnh
đó,
Đảng
ta
đã
lãnh
đạo
toàn
dân
nêu
cao
quyết
tâm
đánh
Mĩ
xâm
lược,
giành
độc
lập
tự
do.
Bằng
đường
lối
đúng
đắn,
sáng
suốt
–
đó
là
thực
hiện
đồng
thời
hai
nhiệm
vụ
chiến
lược
Cách
mạng
xã
hội
chủ
nghĩa
ở
miền
Bắc
và
Cách
mạng
dân
tộc
dân
chủ
nhân
dân
ở
miền
Nam
(điều
chưa
có
tiền
lệ
trong
lịch
sử
quốc
tế)
và
với
tinh
thần
“Không
có
gì
quý
hơn
độc
lập
tự
do”,
tinh
thần
đấu
tranh
anh
dũng,
kiên
cường,
bất
khuất,
không
ngại
hy
sinh
gian
khổ
của
nhân
dân
ta,
cùng
với
sự
giúp
đỡ
to
lớn
của
nhân
loại
yêu
chuộng
hòa
bình
trên
thế
giới,
Đảng
đã
lãnh
đạo
nhân
dân
ta
lần
lượt
đánh
bại
các
chiến
lược
chiến
tranh
tàn
bạo
của
đế
quốc
Mĩ,
giành
thắng
lợi
vẻ
vang.
11h30
phút,
ngày
30/4/1975,
lá
cờ
cách
mạng
tung
bay
trên
nóc
Dinh
Độc
lập,
báo
hiệu
sự
toàn
thắng
của
cuộc
kháng
chiến
chống
Mĩ,
cứu
nước. Cuộc
Tổng
tiến
công
và
nổi
dậy
Xuân
1975
với
đỉnh
cao
là
Chiến
dịch
Hồ
Chí
Minh
toàn
thắng,
đã
kết
thúc
21
năm
kháng
chiến
chống
Mĩ,
cứu
nước,
30
năm
chiến
tranh
giải
phóng
dân
tộc,
giải
phóng
hoàn
toàn
miền
Nam,
thống
nhất
đất
nước,
chấm
dứt
ách
thống
trị
của
chủ
nghĩa
thực
dân,
đế
quốc
trên
đất
nước
ta,
hoàn
thành
cách
mạng
dân
tộc,
dân
chủ
nhân
dân
trong
cả
nước,
mở
ra
kỷ
nguyên
mới
cho
dân
tộc
Việt
Nam
–
kỷ
nguyên
độc
lập
dân
tộc,
thống
nhất,
đi
lên
chủ
nghĩa
xã
hội.
Đây
là
một
trong
những
trang
chói
lọi
nhất
của
lịch
sử
dân
tộc,
là
một
sự
kiện
có
tầm
quốc
tế
to
lớn
và
có
tính
thời
đại
sâu
sắc.
Sau
đại
thắng
mùa
Xuân
năm
1975,
nhân
dân
Việt
Nam
tưởng
chừng
được
sống
trong
hòa
bình
vĩnh
viễn
để
xây
dựng
đất
nước
sau
chiến
tranh
nhưng
không,
sau
đó
kẻ
thù
mới
lại
xuất
hiện,
đe
dọa
hòa
bình,
an
ninh,
toàn
vẹn
lãnh
thổ
của
Việt
Nam,
chúng
phá
hoại,
gây
khó
khăn
cho
công
cuộc
xây
dựng
đất
nước
sau
chiến
tranh. Chính
vì
thế,
từ
1975
–
1986,
Đảng
lãnh
đạo
nhân
dân
ta
vừa
xây
dựng
chủ
nghĩa
xã
hội
trên
cả
nước,
vừa
tiến
hành
cuộc
chiến
tranh
bảo
vệ
Tổ
quốc
chống
quân
Kherme
đỏ
ở
biên
giới
Tây
Nam
(1978
–
1979)
và
quân
Trung
Quốc
xâm
lược
ở
biên
giới
phía
Bắc
năm
1979
để
bảo
vệ
độc
lập
dân
tộc.
Năm
1986,
trong
bối
cảnh
tình
hình
thế
giới
có
nhiều
thay
đổi
và
những
khó
khăn
trong
nước,
Đại
hội
đại
biểu
toàn
quốc
lần
thứ
VI
của
Đảng
đã
đề
ra
đường
lối
đổi
mới
đất
nước,
mở
ra
một
bước
ngoặt
mới
trong
lịch
sử
dân
tộc.
Dưới
đường
lối
đổi
mới
đúng
đắn
của
Đảng,
đất
nước
ta
đã
không
ngừng
đạt
được
những
thành
tựu
to
lớn.
Bộ
mặt
đất
nước
không
ngừng
thay
đổi,
đời
sống
nhân
dân
không
ngừng
được
nâng
cao,
trật
tự
chính
trị
-
xã
hội
ổn
định,
vị
thế
của
Việt
Nam
ngày
càng
được
nâng
cao
trên
trường
quốc
tế.
Năm
2020
là
năm
tiến
hành
đại
hội
đại
hội
đảng
bộ
các
cấp
và
tiến
tới
Đại
hội
toàn
quốc
lần
thứ
XIII
của
Đảng;
là
năm
Việt
Nam
đảm
nhận
vai
trò
kép
(Uỷ
viên
không
thường
trực
của
Hội
đồng
bảo
an
Liên
hợp
quốc,
Chủ
tịch
ASEAN).
Dưới
sự
lãnh
đạo
của
Đảng,
nước
Việt
Nam
đạt
được
những
thắng
lợi
to
lớn,
có
ý
nghĩa
lịch
sử.
“Đất
nước
ta
chưa
bao
giờ
có
được
cơ
đồ
to
lớn,
vai
trò
và
vị
thế
cao
như
ngày
nay”
(Tổng
Bí
thư,
Chủ
tịch
nước
Nguyễn
Phú
Trọng).
Tin
tưởng
dưới
sự
lãnh
đạo
của
Đảng,
năm
2020,
năm
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam
tròn
90
tuổi,
nước
Việt
Nam
tiếp
tục
giữ
vững
và
phát
triển
cơ
đồ
đất
nước,
nâng
cao
vai
trò
và
vị
trí
trên
trường
quốc
tế./.